Thứ Sáu, 26 tháng 5, 2023

TRONG RỪNG NHO - NGÔ TẤT TỐ (Truyện Về Bà Chúa Thơ Nôm)

TRONG RỪNG NHO – NGÔ TẤT TỐ

LỜI NÓI ĐẦU

Là tiểu thuyết dã sử về nữ sĩ Hồ Xuân Hương, lần đầu được nhà in Mai Lĩnh xuất bản, đúng vào thời kỳ có những biến động lớn của lịch sử dân tộc. Bản thảo chưa kịp phổ biến rộng, đã phải "khiêm nhường" nằm ẩn khuất trong im lặng, nên được ít người biết đến, không như các tác phẩm khác của họ Ngô, chúng ta sẽ bắt gặp ở đây một ngòi bút hư cấu tài hoa, phóng túng, làm rõ những nét đặc sắc trong cuộc đời Bà Chuá thơ Nôm, cả đời tư và những bài thơ "tương truyền" mà chỉ bà mới làm được. Những sinh hoạt văn hóa, khoa cử của kinh thành Thăng Long, vào những năm cuối thế kỷ 19; cũng được Ngô Tất Tô tái hiện một cách chân xác, sinh động.

Chúng ta thấy hiện rõ trong tác phẩm hình ảnh Hồ Xuân Hương, một nữ sĩ đang thử phá hết những cái đạo đức giả, chấp nhận cuộc chơi " với ông hiền, ông thánh"; vạch rõ những thứ lễ nghi chế độ của các ông đặt ra cho đàn bà, con gái... rặt là những cái xiềng xích trói buộc.

Trong lần in này, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu toàn vẹn tiểu thuyết dã sử "Trong rừng nho" cùng bạn đọc, hoàn toàn tôn trọng những gì mà Ngô Tất Tố đã thể hiện về nữ sĩ họ Hồ

CHƯƠNG 1

Đêm ấy không có trăng.

Phố phường Hà Nội đã theo cảnh tượng trời đất, biến thành một vật đen xì.

Vũ trụ thu lại vùng ánh sáng của mấy cây đình liệu. Gió bấc ào ào thổi.

Chín, mười ngọn lửa lớn bằng chín mười cái bịch, hết thảy điên cuồng lồng phách như muốn lìa những bó đuốc nứa, nhẩy vọt lên tầng mịt mù.

Quang cảnh trường thi hôm nay càng rộn ràng hơn mấy hôm trước.

Dưới lớp ngói ống của nhà "thập đạo", xiêm áo xen với cờ quạt, thấp thoáng hiện trước bóng đèn lồng.

Trong những gian chòi canh lơ lửng gác ở lưng trời, hiệu trống cái đi đôi với hiệu thanh la, thong thả đưa những giọng oai hùng trịnh trọng.

Ngoài dãy phên nứa hùng vĩ như bức tường thành quây kín bốn "vi" nền trường, đội lính trú phòng rầm rập theo vó ngựa của viên giám trường đề điệu, tiếng nhong nhóng của nhạc ngựa hóa lộn tiếng dình dình của trống quân.

Trên nếp cửa tiền, một bức hoành biển dài dằng dặc như chiếc thuyền thoi, nghênh ngang nằm gối đầu vào đôi đồng trụ. Với bông hoa sen chỉnh chọe kết ở chính giữa và đôi trái găng lủng lẳng treo ở đôi đầu, làm "diềm" phủ trên mép biển dường muốn phô vẻ thắm của tấm nhiễu điều. Với màu sơn son lóng lánh in ánh lửa sáng choang: cái khung chữ nhật, như có ý khoe nét vàng của bốn chữ "Tân hưng thịnh điển."


Từ mặt tiền qua phía tả đến mặt hậu, cũng như từ mặt hậu qua phía hữu đến mặt tiền, bốn cửa ở bốn góc đều ngỏ thênh thang. Mấy cái khung bảng chứa hàng mấy nghìn tên người cùng ngảnh cái mặt "rán giấy" ra đường, như đương ngóng các thầy sĩ tử. Mấy chiếc ghế tréo cao chín mười bậc cùng duỗi bốn chân đứng cạnh các cửa, như đương đợi mấy ông khảo quan.

Hai cửa của vi tả vi hữu ở đằng sau, cũng như hai cửa của vi giáp vi ất ở đằng trước, toán lính kiểm soát đã chực ngoài cửa bằng dáng bộ nghiêm trang. Tấm áo nẹp xanh thân đỏ gọn gàng nấp dưới chiếc nón dấu sơn quang dầu. Những sợi dây tòng của tay thước khảm trai, bông bênh rủ trên miếng ban kiên sạc sỡ.

Khoảng đầu canh ba, tiếng ồn ào tự nẻo xa xa đưa lại, học trò các nơi tới tấp kéo đến cửa trường.

Gió bấc thổi càng dữ.

Những cây đình liệu cháy càng nỏ.

Trên miếng đất giá lạnh của trời đông, bóng người đông như đám hội.

Có người đến bảy tám mươi tuổi, mái tóc bạc phất phơ xòa dưới nón sơn. Cũng có người mới độ mười bốn, mười ba, hồng mao còn ngất nghểu ngóng trên vành khăn nhiễu. Có người mặt non mơn mởn chỉ vào trạc mười tám đôi mươi. Cũng có người râu dài lê thê, ít ra phải năm sáu chục tuổi. Có người ra tuồng kiết xác, cái thân gầy guộc co ro sưởi trong mảnh áo đơn. Cũng có người rất mực phong lưu, áo bông quấn sù sù, hàm răng vẫn run cầm cập. Có người hai vai nặng trĩu, khuỷu tay còn đủ sức thích bên kia, gạt bên nọ, len từ ngoài tít vào trong cùng. Cũng có người cất cổ không lên, lều, chiếu đều bị lôi xềnh xệch ở mặt đất. Vênh cái mặt dương dương tự đắc, đó là người mới thi lần đầu.

Dúm trên trán những nét lo âu, ấy là người lao đao trường ốc.

Đủ các nhân vật. Đủ các bộ dạng.

Đêm càng khuya, học trò kéo ra càng nhiều. Ai vào vi nào, lật đật tìm đến cửa vi ấy. Dưới hàng vạn nón chóp lố nhố đứng ở bốn cửa, hàng vạn con người trang thức cùng một lối như nhau: sườn này cái chõng tre và bộ gọng lều, sườn kia thì bó áo tơi và cuộn áo lều hoặc một đôi chiếu cói, trên ngực quả bầu be và chiếc ống quyển, dưới bụng thì cái yên mộc hay cái tráp sơn.

Bấy nhiêu đồ vật nặng có, nhẹ có, lớn có, bé có, dài có, ngắn có, hết thẩy xúm lại và đu lên cổ các ông thư sinh.

Hình như trời bắt bao nhiêu ông cống, ông đồ, trước khi bước lên đường công danh, đều phải tập làm anh phu tải. Kẻ chen vào, người đẩy ra, kẻ du đi, người kéo lại, dưới bóng lửa sáng, đám người bị dồn dập, bị xô đẩy, cồn cộn như lớp sóng nước triều. Tiếng gọi nhau, tiếng hỏi nhau, tiếng mắng nhau, tiếng cãi nhau, tiếng lầm rầm, nói chuyện với nhau, các thứ tiếng ấy hợp lại, thành một cái vọng ầm ầm, bốn khu cửa trường giống như bốn cái chợ lớn.

Sang đầu canh tư, các cây đình liệu đều cháy già một nửa. Tàn nứa đỏ ối theo ngọn gió bấc tản mác bay khắp giữa trời. Rồi từ từ, nó rơi xuống đám đầu người, xuống quãng đất không, xuống những nơi xa tít, nếu nó không bị tắt ở bóng tối.

Trong nhà thập đạo, trống khẩu gióng, kiểng đồng, nện đủ ba hồi chín tiếng, các bóng đèn đều bị lay động, các ông quan trường cắt nhau mỗi người xuống mỗi vi. Bốn ông ngự sử đem hết chức trách đàn hặc lên bốn chòi canh. Hai ông phân khảo tiến ra cửa hai vi tả hữu với cái quyền "nửa nội nửa ngoại. Ông phó chủ khảo theo biển "phụng chỉ" đến cửa vi ất. Còn cửa vi giáp, vẫn là phần ông chánh chủ khảo trông nom.

Hai hàng đèn lồng lấp ló soi hai bên đường, một đôi lọng vàng nghiêm chỉnh rước lá cờ "khâm sai" đi đằng trước đường, ông chủ trường thi và cái mũ cánh chuồn, cái hốt ngà voi, cái đai kim tuyến, cái áo thủy ba, cái hia rát con bướm vàng bằng bạc, khúm núm núp dưới bốn chiếc lọng xanh chóp bạc, thong thả đi từ nhà thập đạo ra cửa trường. Cũng như mấy ông phó khảo phân khảo ở các cửa kia. Ông chánh chủ khảo vâng mệnh lệnh tôn nghiêm của lá cờ vua ban, khoan thai bước lên mặt ghế tréo và ngồi chỉnh choẹ vợi một chồng quyển thi của học trò. Lọng vàng lọng xanh lại lần lượt làm theo phận sự. Nghĩa là bốn cái lọng xanh cùng che vào ông chủ khảo, hai cái lọng vàng thì che cho lá cờ "khâm sai".

Tiếng ầm ầm ở khu đất của trường tự nhiên im bặt, mấy nghìn con mắt đều đổ dồn vào viên đại thần đứng đầu khảo quan.

Bỗng như phá bầu yên lặng: "Báo oán giả tiền nhập! Báo ân giả thứ nhập! Sĩ từ thứ thứ nhập!" - Dứt mấy tiếng loa chiếu lệ, ậm ọc ở trên chòi canh. Người lính đứng cạnh ghế tréo của ông chủ khảo theo miệng người lại phòng cầm sổ cũng đứng chỗ ấy, bắc loa đọc tên họ học trò.

Một tiếng dạ bật lên trong đám đông.

Một người thiếu niên liều mạng lách qua "vòng vây , đệ các đồ đạc kềnh càng đến khu đất trước ông chủ khảo.

Toán lính kiểm soát bắt đầu làm việc.

Họ giở bỏ áo tơi và cuốn áo lều, họ dòm những cái chõng, chân chõng, họ ghé vào ống đựng quyển và quả bầu be đựng nước, họ lần giải lưng và vuốt các gấu áo gấu quần, họ cởi tung cả bộ gọng lều, rồi họ lục soát đến cái tráp sơn.

Ngoài một thoi mực, một cái nghiên, vài cái bút, một cái dùi vở, một tập giấy bản và mấy cái bánh giò, mấy cái bánh dầy, vài cái chả trâu, vài miếng cơm nắm, vài miếng thịt rang, trong tráp không có vật gì khả nghi.

Người thiếu niên ấy được phép lĩnh quyển thi của người lại phòng, và tung tăng đi vào trong trường với các đồ đạc lúc lích, vấn quanh vai quanh cổ.

Đến lượt người khác theo tiếng loa gọi tiến vào.

Người này cũng không có sách thạch bản hay văn cũ chữ kiện chi hết, nhưng các đồ lặt vặt không đựng bằng tráp mà đựng bằng yên, và trong cái yên lại thêm một bộ bàn đèn thuốc phiện. Thuốc phiện không phải vật bị cấm, người ấy cũng được lĩnh quyển vào trường.

Người lính cầm loa lại gọi đến tên người nữa.

Cũng không có thứ gì gian lậu, nhưng ở trong tráp người ấy lại có một dầm con. Thì ra ông có chứng đi kiết, phải dùng thứ khí giới ấy để vùi cái bã văn chương xuống nền lều, nếu khi làm văn chẳng may bệnh phát.

Mang dầm vào trường không có tội gì. Người ấy được qua cứa trường như hai người kia, sau khi đã nhận quyển thi bỏ vào ống quyển.

Tên người khác nữa được nhắc lại trong miệng loa đồng.

Các vật cần dùng của người này không khác gì của mấy người trước. Riêng có thứ đồ đựng nước không phải là quả bầu be mà là một cái lọ sành rộng miệng.

Ngạc nhiên, người lính kiểm soát thò que khoắng dưới trôn lọ, tức thì ở trên mặt nước có vật tròn tròn nổi lên.

Càng lấy làm lạ, người lính kia vội vớt vật ấy ra bửa ra xem. Té ra một mớ giấy bản viết chữ nhỏ hơn con kiến, người ta đã vo tròn lại và trát một lượt sáp ong ở khắp chung quanh.

Của phi pháp liền bị tịch thu, và cái tội "mang sách vào trường" tức khắc đưa học trò gian ngoan ra khỏi nơi thi cử.

Người lại phòng, người lính cầm loa và bọn lính kiểm soát lại tiếp tục làm việc như thường.

Chừng nửa canh năm, sương mù ở các cây đình liệu đã lui xuống gần mặt đất, ánh sáng cũng biến ra sắc úa vàng.

Đám người và đám lều chõng đã chuyển hết ba phần tư vào trường, khu đất ngoài trường chỉ còn lơ thơ vài trăm học trò, tiếng ồn ào dần dần êm dịu.

Mặt trời mọc, các cây đình liệu cũng vừa cháy hết, vũ trụ đã khôi phục cảnh tượng xinh đẹp và mông mênh của ban ngày.

Trong miếng đất giáp với cửa trường, một chàng trai trẻ thơ thẩn đợi sự - khám xét của bọn lính kiểm soát. Bộ mặt tuấn tú cố chọi vẻ kiều diễm với ánh nắng buổi mai. Đôi mắt long lanh như muốn hút cả sơn hà thành quách. Quần áo đồ đạc chàng ấy không có thứ gì phạm cấm, chỉ duy cái ngực sao lại nở nang mẩy lớn, hơi khác với ngực người thường.

Lục hết cái món linh tinh, cố nhiên bọn hạnh kiểm soát không quên soát cái chỗ mà họ đã nghi ngờ đó.

Vừa thục tay vào lần trong áo chàng ta, thì người lính ấy lập tức rút luôn tay ra, dáng bộ giẫy nẩy giống như đụng phải nước nóng.

Những người gần đó hau háu nhìn chàng tuổi trẻ bằng đôi mắt ngờ vực, có kẻ bảo chàng ấy giắt nhiều sách vở giấy má trong mình, có kẻ lại đổ trong mình chàng ta hẳn có hung khí hoặc phù chú chi đó.

- Bẩm quan lớn, người này không phải đàn ông.

Sau tiếng trình giật giọng của người lính kiểm soát, ông chủ khảo trọ trẹ gắt gỏng:

- Sao mi hay Bẩm quan lớn, con thấy...

Rồi ngập ngừng, người lính như không dám nói nốt.

- Mi thấy cái chi?

Người lính lại ngập ngừng:

- Bẩm con thấy. . .

Sự thông minh của chủ khảo đã do sự ngập ngừng đó mà biết được cái người lính đã thấy, ngó mặt người trẻ tuổi, ông ấy hỏi một cách nghiêm nghị:

- Có thật mi là đàn bà không?

Đích thực đàn bà, người ấy không dám chối cãi. Lệnh nghiêm từ trên ghế tréo đưa xuống.

Người đàn bà ấy phải bỏ chiếu, lều, chõng, tráp ở cửa trường, theo luôn sợi thừng của lính kiểm soát để đi ra dinh tổng đốc.

Trong đám đông, những ông sĩ tử còn đợi tiếng gọi, xôn xao người nọ hỏi người kia:

- Cô ả nào mà to gan thế - Quê quán chị ta ở đâu, có ai biết không?

- Cô ta ở phường Khán Xuân, chứ đâu.

- A! Cái cô ái nam ấy ư?

- Phải, chính cô ái nam ấy đấy!

- Hoài của nhỉ! người thế mà ái nam!

- Cô ả học hành khá lắm phải không?

- Chẳng khá lại dám giả trai đi thi? Giỏi lắm đấy chứ, kém gì nàng Văn Tú Tài?

- Các ông dám khen nó giỏi, tôi thì tôi cho là đồ đ...,"Nữ ngôn bất xuất", chữ sách để đâu? Một người con gái đã có đọc sách mà dám len lỏi vào thi với đám con trai, thì còn biết danh giá là cái gì nữa. Dầu hay ! "Tám vạn ngậm tư" cũng là đồ bỏ.

- Chẳng những đồ bỏ mà thôi, lại còn cái tội "khi quân" nữa chứ. Giả làm con trai đi thi đó là khi quân chứ gì! Rồi các ông xem, chị ta được "giảo giam hậu là nhẹ, nếu tội ấy vào người đàn ông thì phải "trảm quyết". Cứ thế, người ta cứ chĩa vào mặt người con gái mà cãi vã với nhau mãi như thế.

Mặc cho những tiếng mỉa mai, những lời khen ngợi bay ngoài lỗ tai, cô gái lạ đời cứ việc đi qua trước mặt mọi người bằng dáng bộ thản nhiên.

Mặt trời lên cao.

Ánh nắng đã làm tan bớt giá rét.

Khu đất ngoài trường dần dần vắng teo.

Câu chuyện "thi gian" của cô ả ái nam, nửa theo các ông học trò vào trong vi giáp, nửa đi với bọn hàng quà hàng bánh ra các phố phường

CHƯƠNG 2

Hoa hòe bắt đầu tàn rụng.

Trước những hạt mưa lún phún của tiết lập đông, cánh vàng theo ngọn gió may tả tơi tung khắp các mái nhà và các đường phố. Làn mây u ám phủ kín bầu trời. Ánh nắng hòa với bóng tối làm cho vũ trụ thành một màu tro.

Hôm nay cũng như mọi hôm mới đây, phường Khán Xuân của thành Hà Nội đã được loáng thoáng trang điểm bằng những chậu kim quất đỏ ối, những khóm cúc màu như ngọc như vàng; những bộ quần áo tím xanh của các cô khuê các.

Năm hầu tàn.

Trong gian gác nhỏ hẹp nhô trên một dãy mái ngói ở giải ven Hồ Tây, Xuân Hương với bộ mặt tần ngần, thẩn thơ làm bạn với mấy chồng sách, lổng chổng mấy ngọn bút ngả nghiêng, một tập hoa tiên tơi bời trên án sách.

Cảnh tượng bao la của mặt hồ và dấu vết điêu tàn của thành quách lâu đài thuở nọ thi nhau tiến vào cửa sổ, giúp thêm sự cô tịch cho gian gác trời đông.

Những cánh hoa hòe tản tác dưới hạt mưa bay cùng những lá sen khô xơ xác, nhấp nhô trong ngấn nước, có ý nhắc lại cho nàng mấy vết đau đớn ẩn nấp đáy tim.

Hồi này năm ngoái, chính là hồi nàng phải bước chân vào dinh ông Quyền Chưởng Vệ Hà Nội.

Bấy giờ những kẻ thèm mồi chung đỉnh, thảy đều khen ngợi cả, chức "bà bé" của nhà ông lớn là chức cao sang. Nhưng trong ý nghĩ của nàng, thân phận "tiểu tinh", chỉ là kiếp con sen con nụ.

Giả sử nàng là con nhà hàn vi hoặc là một kẻ ngu dốt, người ta gả bán một cách dấp dúi như vậy, thì nàng cũng không lấy làm phàn nàn. Nhưng gia thế và tư cách của nàng đã đâu đến nỗi!

Chẳng may trong lúc giang sơn đổi chủ, sự tàn bại của vua Lê chúa Trịnh đã lôi sụp sự thịnh vượng của nhà nàng, trước kia, họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi trong huyện Quỳnh Lưu, vẫn là một họ trâm anh thế phiệt.

Tuy rằng cha nàng mất sớm, cải cảnh bồ côi, bồ cút đã đày đọa nàng từ thủa lên mười, nhưng nhờ sự dạy bảo của mẹ đẻ và nhờ nết thông minh của trời cho từ thủa lên mười, nàng nghiễm nhiên là một cô học trò biết làm câu đối bài đoan.

Dầu rằng sự học của nàng vẫn bị những ông tôn trưởng coi làm đồ để viết thư cho con trai, không ai thiết săn sóc, rèn cặp, nhưng nó với nàng cũng như hạt giống tốt với miếng đất phì nhiêu, không cần sự vun tưới của người ngoài, trong năm sáu năm, vẫn có thể thành một chồi cây rườm rà, nở những bông hoa tươi thắm.

Người ta đã phục nàng là bậc tài nữ không kém nàng Ban, ả Tạ, khi thấy văn nàng có vẻ tài hoa.

Người ta lại rủa nàng sẽ là ca kỹ Tiết Đào, khi nghe thơ ca của nàng có giọng lẳng lơ chua chát.

Cũng vì sợ nàng hóa như tác giả của hai câu "cành chim lá gió", thì có nhục cho gia phong, chú nàng mới bắt nàng thôi việc bút nghiên, tập nghề cày cấy.

Lại vì ghét cái giọng ỡm ờ trong bài tức cảnh "tát nước gầu sòng", nhà đạo đức ấy, trước khi lâm chung, còn cố ghép cho xong mối dây lên giữa nàng với ông Quyền Chưởng Vệ Hà Nội.

Những như cái tướng rậm râu sâu mắt và cái tính cộc cằn lỗ mãng của đức lang quân, cũng đã khổ cho kẻ làm vợ, huống chi ở ngồi, ăn cạnh, nằm kề, còn phải tập những sự luồn cúi, nếm những mùi cay chua, thì một người tài tình như nàng, chịu đựng làm sao cho nổi. Phúc đức thay, lòng hiếu sắc và oai đại tướng của viên quan võ nhị phẩm địch không lại máu ghen của mụ sư tử Hà Đông, qua sáu tháng đọa đầy, nàng được thoát khỏi nhà chồng bằng tội "ái nam" của Viên Chưởng Vệ đã ghép cho nàng để tránh tiếng sợ vợ.

Mẹ mất, chú đã chết, anh em họ mạc đều ở trong vùng Nghệ An, nhà cửa ở phường Khán Xuân, quê hưởng "sinh đẻ của nàng, lại về tay nàng làm chủ.

Lúc này không còn sợ ai ngăn cản, đè ép, nàng đã có quyền làm việc theo như chí ý của mình.

Cũng sôi kinh nấu sử, cũng mười năm đèn sách chứ kém gì ai? Ta phải giật lấy miếng "ông đồ ông cống" cho thiên hạ biết tay, để họ khỏi khinh "đàn bà , con gái". Bởi nghĩ thế, nàng mới ăn mặc giả trai, đổi họ đổi tên, nộp quyển xin vào trường thi. Chẳng ngờ, trời chẳng chìu lòng, việc bí mật lại bị cái vú "dậy thì" tố giác với lính kiểm soát, khiến nàng bị bắt luôn ở của trường. Tuy nàng chỉ bị giam hai ngày, nhưng nghĩ đến nguồn cơn lúc nào, nàng vẫn tức bực lúc ấy.

Ô hay! Thánh hiền vua chúa thù gì đàn bà con gái mà lại không cho người ta đi thi? Nếu không gặp được ông tổng đốc bà Nội là bạn cha ta, và những ông ngự sử, chủ khảo một học trò của ông ta, thì cái tội "cải trang ứng thí" có lẽ phải đến xử tử. Cứ tình thế này, đàn bà con gái không còn kiếp nào mở mặt lên được. Đời đã chó má như vậy, thân thế của ta sau này sẽ đi ra con đường nào?. Quanh quẩn nghĩ đi nghĩ lại, nàng vẫn chưa tìm được câu trả lời.

Gió may hiu hiu đưa vào cửa sổ.

Chồng giấy hoa tiên xanh đỏ phất phới bay ra khắp nhà.

Uể oải nàng đứng dậy xếp nhặt từng mảnh để trên án sách.

Mấy hàng chữ thảo bỗng múa may rối rít ở trước mắt nàng:

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.

Năm thì, mười họa, nên chăng chớ

Một tháng đôi lần, có cũng không.

Cố đấm ăn xôi, xôi lãi hỏng

Cầm bằng làm mướn, mướn không công.

Thân này ví biết dường này nhỉ

Thà trước thôi đành ở vậy xong! Xem đi xem lại mấy lượt, nàng chợt cau đôi lông mày: - Thật là "ghét của nào, trời trao của nấy", phương ngôn nói không sai. Mình chê người ta phải lấy chồng chung, trời liền bắt mình phải làm vợ lẽ một lão vũ phu thô tục. Mình riễu người ta thà rằng ở vậy, đến mình giá muốn ở vậy cũng không thể được, cái gia pháp oái oăm vẫn cố dúi đẩy mình đi, không để cho mình ở yên.

Mình cười người ta làm mướn không công, nhưng mình đi ở năm sáu tháng ròng vẫn trở ra với hai bàn tay trắng... Khen cho con tạo khéo trêu người...! Mân mê giở đến tờ khác, nàng như thích ý, gật gù ngâm:

"Đương cơn nắng cực chửa mưa tè"

Im lặng, nàng tự bẻ mình: "Chửa mưa tè nghe vẫn chưa ổn. Vần "tè" khí ép.

Vả nắng cực tức là chửa mưa, cần gì phải thêm hai chữ "chửa mưa" cho thừa?

Giả sử chữa lại làm "tiết trời hè" có lẽ êm hơn!

Sẵn bút trong ống, nàng liền tẩm mực dập mấy chữ cũ, viết thêm vài chữ nho nhỏ ở cạnh, rồi nàng đọc lại:

Đương cơn nắng cực, tiết trời hè

Rủ chị, em ra tát nước khe

Lẽo đẽo chiếc gầu, ba góc dụm

Lênh đênh một ruộng, bốn bờ be.

Xì xòm đáy nước, mình nghiêng ngửa

Nhấp nhổm bên ghềnh, đít vắt ve.

Ham việc làm ăn quên cả nhọc

Dạng hang một lúc đã đầy phè. Nàng bỗng mỉm cười:

- "Nắng cực!...Dạng hang... " Kể cũng chớt nhả thật đấy. Không trách ông chú phát cáu cũng phải. Xưa nay thi gia vẫn dùng những chữ gió, trăng, mây, móc, gấm, vóc, ngọc, vàng kia chứ, ai dám đem những tiếng ấy vào thơ? Nhưng, chớt nhả thì chớt nhả, nó vẫn không hề ra ngoài đầu đề, và cũng không hề mất vẻ tự nhiên. Phải! Có nắng cực mới phải tát nước, đã tát nước thì phải dạng hang, tức cảnh "tát nước gầu sòng", dùng mấy tiếng đó kể cũng sát lắm, thế thì dù có chớt nhả cũng không can chi, sao lại có kẻ bẻ vành, bẻ vẻ?

Chẳng qua mình là con gái, thì bài ấy bị ghép vào tội đĩ thõa lẳng lơ, giả sử mình là con trai, mà nghĩ được những câu như thế, tất nhiên họ sẽ khen nức, khen nở, híp mắt mà cười với nhau, rồi còn người này truyền cho người kia là khác. Lạ thay, trong việc dùng chữ làm thơ con gái với con trai cũng còn chênh lệch khác nhau đến như vậy?... ừ thì ta cũng nhận rằng con gái không được phóng túng như con trai, ta lại nhận rằng bài thơ kia là thơ lẳng lơ đĩ thõa đi nữa, nhưng mấy câu thơ đĩ thõa lẳng lơ, chưa phải là tội chửa hoang làm đĩ , cớ sao ông chú lại nỡ lấy nó làm án để đẩy ta vào chỗ nọc rắn miệng hùm? Té ra người ta chỉ biết quý cái gia phong, không coi một đời tài sắc của ta vào đâu? Nếu không được mụ Chưởng vệ có tính ghen tuông, thì thân ta phỏng còn gì nữa ! . . .

Thang gác có tiếng thình thịch.

Con nụ bưng khay bàn chè và ấm nước sôi đặt lên trên yên.

Quay ra, nàng pha chè chuyên nước, một mình thơ thẩn vừa ngẫm hương chè vừa ngẫm sự đời. Câu hỏi lúc này dường như lại thì thầm ở đâu bên tai: "Đời đã chó má như thế, thân thế của ta sau này sẽ đi ra con đường nào?"

Vẫn chưa tìm được câu trả lời. Nàng liền dấp giọng một hớp nước chè, rồi mơ màng nhìn ra cửa sổ.

Gió may vẫn thổi mạnh.

Lá sen khô vẫn lướt theo lớp sóng mặt hồ.

Cánh hoa hòe lả tả bay vào trong gác, và loáng thoáng rơi xuống án sách.

Nàng bỗng giật mình và bụng bảo dạ: "Năm ngoái khi ta ra đi, hoa hòe cũng đương úa rụng, bây giờ ta trở về đây, hoa hòe lại đã hầu tàn. Thế là hết một năm rồi, thân ta vẫn trơ trọi, lênh chênh. . . chả mấy nữa mà mặt thâm má hóp. Ấm nước hơi nguội, nàng gọi con nụ đem xuống đun lại. Sợi "tư tưởng" bị đứt một quãng. Giây lát, nó lại tiếp tục kéo ra. Nàng cười chua chát: "Từ khi còn là gái thanh tân, hình như ta đã nổi tiếng đổng đảnh, chua ngoa, thiên hạ ai ai cũng sợ. Bây giờ tuy vẫn thanh tân, nhưng nào ai biết? Người ta chỉ biết ta là đứa chua ngoa và lộn chồng, chẳng những họ sợ, mà họ còn khinh bỉ nữa. Ta không thể đi tu, ta cũng không thể thanh tân suốt đời, nếu muốn sau này có được hạnh phúc tốt đẹp, có lẽ ta phải chừa bớt thói ỡm ờ, sửa lại tính nết cho thành một người chín chắn đứng đắn, không nên cưỡng lại với lễ giáo của thánh hiền. Phải, "ở đời chìu đời", phải như thế, ta hãy thôi không làm thơ, không tròng ghẹo bạn gái, không chế riễu những anh con trai, ăn nói đứng ngồi phải giữ cho đúng lời dạy ở Thiên Nữ Tắc và các bài nữ huấn...!

Tiếng thình thịch lại lần lần nện ở thang gác, con nụ đã lên với ấm nước sôi. Bã chè hơi nhạt, nàng trút ra cái bát chứa, và cho chè khác vào ấm chuyên. Cạn một tuần nước đầu, nàng đứng dậy toan vơ đống giấy hoa tiên đem đốt.

Bỗng nàng dừng tay và tự hỏi thầm: "Sau khi sửa đổi tính nết, thành người con gái đứng đắn và chín chắn, đời ta sẽ như thế nào?!! "Và nàng lại tự trả lời: "Chắc sẽ có người tâm đầu ý hợp, cậy mối đến hỏi. Ta sẽ cùng họ hưởng cái phúc tiêu dao ngâm vịnh như những đôi giai nhân tài tử ngày xưa...".

Tức thì những cuộc chơi bời thú hứng la liệt bầy trước mặt nàng. Nàng đương cùng chồng đối mặt ngồi trong thuyền bồng lơ lửng bơi trên dòng thị Hà; ánh trăng lóng lánh chiếu xuống lòng sông, con thuyền nhẹ nhàng rẽ lớp sóng hàng đủng đỉnh qua những đám bóng cây và từ từ trôi ra cửa biển. Nàng đương cùng chồng cheo leo đứng trên đỉnh núi Tản Viên, bên tai, tiếng thông reo ào ào, tiếng suối tuôn róc rách, dưới chân, mây khói lờ đờ lượn đi lượn lại, trước mắt, núi sông, thôn ô thu lại như một bức họa đồ. Nàng đương cùng chồng tựa bức câu lơn, ngắm đàn cò bay trên Hồ Tây; mùi sen bát ngát đưa vào trong gác, người nọ tươi cười hớn hở chỉ bóng cỏ cây, mây nước bắt người kia vịnh thơ. Nàng đương cùng chồng song song nằm trong chăn cùng gối đầu trên một chiếc gối thêu; gió xuân ấm áp quạt làn khói trầm thấp thoáng bay trước màn the, thêm sự nồng nàn cho tình hứng. Nàng đương cùng chồng... Một cánh hoa hòe thoáng qua bên mắt. Chớp mắt một cải, mấy câu hỏi khác thình lình ập đến hỏi nàng: "Cái người cùng nàng hưởng chung các cuộc vui thú, sẽ là người nào? Trong bọn thiếu niên ăn học ngày nay, nàng đã biết mặt biết tên tất cả, người nào sẽ là người tâm đầu ý hợp của nàng? !Thế rồi trong con mắt nàng, một bọn tài tử văn nhân, theo câu hỏi kéo đến lũ lượt. Anh Nguyễn Văn Giáp ra phết phong lưu công tử, nhưng viết một bức thư không thông. Anh Trần Văn Nhâm văn chương nhiều bài thần tình nhưng mắt trắng giã, môi thâm xì, rõ ra con người hiểm độc. Anh Đặng Văn Mậu mặt mũi cũng tuấn tú, tư cách cũng thông minh; chỉ phải cái đứng ngồi khúm núm, cố làm bộ "đức hạnh." Còn ngoài ra vô số anh khác; ôi thôi! toàn là hạng học trò của Vương An Thạch!

Mặt bẩn không rửa", "áo bẩn không giặt", lại hơn cái mùi hôi như cú, chấy rận như sung, học già giã như quốc kêu, mà văn vẫn nặng như đá đeo, sách vẫn quên như hũ nút. Chán nản, nàng kết một câu: "Không có ai cả." Và nàng lại tự đồng tình với nàng: "Phải, không có ai hết, không có ai đáng là kẻ tâm đầu ý hợp của ta, có thể cùng ta hưởng những cuộc chơi bời thú hứng. Trừ ra hoặc còn kẻ nào rách trời rơi xuống, chứ trong hiện nay chỉ có một hạng anh Nguyễn Văn Giáp anh Trần Văn Nhâm anh Đặng Văn Mậu và vô số anh học trò của Vương An Thạch ấy thôi. Nếu ta mà làm vợ họ, thì ta có khi sẽ là bà Đồ, sẽ là bà Cống, sẽ là bà Huyện, bà Phủ, bà Tổng đốc, bà Thượng thư. Ta sẽ suốt ngày chỉ ngồi têm trầu. Ta sẽ suốt bữa chỉ ngồi gắp từng miếng đồ ăn đặt vào bát họ. Ta sẽ suốt năm chỉ nheo nhéo rủa thằng quít và chửi con sen, con nhài... Có thể như thế được chăng. Không thể được. Ta không thể bắt chước nàng Mạnh Quang, khi đưa thức ăn cho chồng phải nâng bát ngang với lông mày. Ta không thể bắt chước nàng Tạ Đào Uẩn, khi nói chuyện với khách đàn ông của chồng, phải che cái trướng trước mặt, cho khách khỏi trông thấy mặt. Ta không thể bắt chước nàng Trác Văn Quân, khi chồng chểnh mảng, còn cố nghĩ lấy bài ngâm "đầu bạc" để hòng chuộc lại tình yêu. Những cái người ta cho thảo hiền, hoặc sang trọng, với ta, chỉ là những sự khốn nạn đáng khinh. Thà rằng trơ trọi lênh chênh, ta không thể làm kẻ "sửa túi nâng khăn" cho những người mà ta không sao chịu nổi, thì ta còn tập lấy những thói khốn nạn làm chi.

Tần ngần, nàng chống tay vào khung cửa sổ, vơ vẩn nhìn trời, nhìn mây, nhìn những ngọn cỏ lơ thơ ở bờ hồ bên kia, để cân nhắc thêm một lần nữa, xem những ý nghĩ vừa rồi có đúng hay không đúng. Nàng thấy những thứ lễ nghi chế độ của những ông thánh, ông hiền đặt ra cho đàn bà con gái, rặt là những cái xiềng xích.

Thật thế, rặt là những cái xiềng xích. Người nào chịu xiềng xích, thì họ bảo là dâu thảo, vợ hiền. Ai mà cưỡng lại, thì họ cho là "lắng lơ đĩ thõa".

Nghĩ vậy, nàng bỗng cười ngặt nghẽo: "Chẳng những thế thôi, họ còn sưng sưng vu cho người ta là gái ái nam nữa chứ".

Rồi nàng quả quyết: "Không cần! Muốn gì thì gì, ta cứ sống bằng ý muốn của ta, ta không sống theo sở thích của người.

Bắt đầu từ nay, ta thử phá hết những cái đạo đức giả dối, chơi với ông thánh, ông hiền một mẻ xem sao. "

Kiêu ngạo, nàng khúc khích cười thầm: "Được rồi, lão nghè Hoàng vẫn lên mặt đạo đức cao thượng, làm hư cả mấy trăm học trò. Hôm nọ ở cửa trường thi, chính bọn học trò ông ta đã đua theo lão Quyền Chưởng Vệ mà phao cho ta cái tiếng ái nam. Bao nhiêu lời ong tiếng ve đó vào đầu ta từ trước đến giờ, phần nhiều ở ông ta mà ra cả.

Ta phải cho ông ấy biết ta trước nhất.

Nhanh nhẩu, nàng đến án sách, hí hoáy lấy giấy đóng quyển, viết một bài văn thật dài.

Đọc lại một lần, nàng phá lên cười:

- Lão nghè Hoàng nghe hết bài này, không khéo sẽ tức mà chết.

Rồi nàng giao cuốn văn ấy cho con nụ, và dặn nó sáng mai phải đem nộp ở trường học cụ nghè Hoàng

CHƯƠNG 3

Nửa sân bên ngoài, dãy bàng cổ thụ vẫn nghênh ngang giương tàn lá úa đỏ giữ cho khu đất dưới gốc khỏi mất vẻ sầm tịch âm thầm.

Nửa sân bên trong, mặt trời hèn yếu của muà đông đã nhòm xuống gậm giàn hoa bằng những lỗ phên mắt cáo.

Với những mái tóc lăn tăn ngắn ngủi, mấy cây thông bù, trắc bách lù lù ngồi trên "thống gạch" như chưa nguôi cơn rét đêm qua.

Với những nhành lá lướt mướt hơi sương, mấy khóm bạch ngọc, kiều diệp, loạn điểm tố tâm hớn hở múa trong hàng chậu da lươn, như mừng đón sự ấm áp của ánh nắng buổi sáng.

Mùi hương thoang thoảng của hoa lan hòa với mùi thơm đậm đà của hoa mộc, hoa sói, theo luồng gió nhẹ ngào ngạt bay vào trong nhà.

Trường học cụ nghè Hoàng lúc ấy vừa mới mở cửa.

Trên dãy xà nhà dài dặc, mấy bức hoành phi nền gấm ngất ngưởng nằm với nét sương kính của những chữ chân phương.

Trước cái cây cột béo lùn, mấy đôi câu đối sơn then thếp vàng, bệ vệ phô vẻ đứng đắn của lối chữ đầu tầm đuôi én!

Ngoài mặt các tường các vách, những bức tứ hoành xanh, đỏ, vàng, trắng thi nhau khoe nét tươi, nét rẻo, nét sắc sảo những dòng chữ thảo sen chữ hành.

Hết thảy mọi đồ trang hoàng đều tô điểm cho sự cao quí của một nền đạo đức.

Bằng cái danh vọng lớn lao tự đời cố Lê còn lại và vẫn lẽo đẽo sống theo tuổi thọ của một vị cố lão, tòa nhà ấy đã nổi tiếng "mực thước", về sự rèn đúc nhân tài. Bây giờ giang sơn Nam, Bắc mới chung nhau một bức bản đồ, những cuộc chinh chiến đã im, việc học của các trấn Bắc Thành đã bắt đầu khôi phục cảnh hoang phế trong mấy chục năm loạn lạc, thiên hạ đã nô nức tập văn, đọc sách, để sáu năm một lần tranh cướp nhau miếng công danh trong kỳ thi hương, cho nên số người vào cửa cụ Nghè rất đông, tuy là một trường tư thục; mà sự sầm uất của văn học không kém gì trưởng đốc học Hà Nội.

Trừ ra mươi cậu đồng sinh là những con cháu họ hàng theo đến, cố nhiên học trò cụ Nghè cũng như các học trò lớn khác, chỉ có hai lớp đại tập và trung tập.

Trung tập hàng ngày phải đến nghe sách, hàng tuần phải học làm văn. Còn đại tập thì mỗi tháng tập văn mấy kỳ.

Hôm ấy nhằm kỳ bình văn của học trò đại tập, bao nhiêu học trò trung tập đều phải đến sớm.

Cổng trường vừa ngỏ, những chiếc nón quai chuỗi đã lố nhố đưa các thiếu niên anh tuấn lục tục tiến vào với những chồng sách dầy xù.

Cụ Nghè còn ở nhà trong chưa ra.

Nón sơn lần lượt bấu vào các tường các cột, hoặc đu lên then co tầu, các cậu học trò ngổn ngang chiếm lấy ngôi chỗ của mình ở mấy tấm phản ngoài ngạch.

Theo lệ mọi ngày, những người giỏi nhất lớp trung tập thay mặt cụ Nghè truyền dần "mối đạo" cho những cậu tí nhau;

ưỡn ẹo với cuốn sách nát nhầu cắp ở dưới nách, một lũ đồng sinh tóc chỏm kế tiếp nhau tựa vào cột hiên, ngắc ngứ nhắc lại những câu đã học hôm trước.

Mấy cậu không thuộc, thèn lẹn tìm chổi quét khắp nhà trong nhà ngoài, những cậu đọc trơn, tung tăng chạy đi mài son, mài mực. Cậu nào chưa có chữ học, đưa sách cái nhờ người viết cho. Cậu nào bài học đủ rồi, mở sách học chồng bên bực cửa đợi chấm.

Nhà trường bắt đầu om sòm.

Những chữ "chi", "hồ", "giã", "giả" trong mấy cuốn sơ học vấn tâm, "ấu học ngũ ngôn thiên" nhất tề bị nhai đi nhai lại. Những tên ông thánh ông hiền ông vua ông quan trong các sách "Dương Tiết" , "Tam hoàng","Hạ Thương Chu", "Hán Cao Tổ", đồng thời bị réo róc hàng mấy chục lần.

Nghĩa chữ dần dần bị nuốt, tiếng học dần dần thấy thưa, qùy đầu gối xuống gạch thềm, các cậu bé con tranh nhau đặt sách học vào trước mặt mấy cậu hơn tuổi và lễ phép hỏi: "thưa anh xin kể".

Chữ nào nghĩa ấy, mỗi cậu bé con kể hết từng chữ trong bài học, thì mỗi cậu lớn tuổi lại ngân giọng xướng luôn từng câu cho chúng đọc theo.

Hết lượt kể nghĩa, các cậu tí nhau như đã trả xong món nợ một ngày hôm ấy, ai nấy sung sướng ra các gốc bàng rủ nhau đánh khăng đánh đáo để chờ lấy sách viết tô.

Lớp học của bọn đồng sinh đã tan.

Mặt trời vừa lên khỏi ngọn cây bàng.

Trống cái hùng dũng điểm một hồi ba tiếng.

Cả lũ học trò trung tập răm rắp đứng dậy với một giây "lạy thầy".

Chiếc điếu ống, cái tráp sơn và cái giỏ ấm tích trịnh trọng rước cụ Nghè áo mũ chỉnh đốn ở nhà trong.

Bệ vệ ngồi vào giữa bộ ghế ngựa quang dầu kê sau chiếc án thư giàn mạt, cụ Nghè thong thả mở tráp lấy ra một cái cối ngà, một cái chầy đồng và mấy miếng trầu không cau tươi.

Nhanh nhẩu và cung kính, một cậu học trò tiến lên, cúi đầu đón các đồ vật đem sang phản cạnh, hì hục nghiền, rồi lễ phép đệ vào.

Móm mém nhai tản miếng trầu, cụ Nghè khoan thai vê mồi thuốc lào đặt vào nõ điếu.

Nhanh nhẩu và cung kính, một cậu học trò khác tiến đến, cúi đầu bưng bộ đồ đánh lửa trên án thư ra phản thềm.

Chan chát đập hòn đá lửa vào một thanh sắt cho lửa bật ra và bén xuống lớp tro giấy có trộn lưu hoàng diêm tiêu đựng trong hộp gỗ, cậu ấy se sẽ nhón những mảnh than có lửa tiếp vào mồi giấy, phì phò thổi cho bùng ngọn, châm vào sợi giây ruột gà, rồi lễ phép đưa lên.

Ngậm hớp nước chè trong miệng, cụ Nghè vít xe điếu hút sòng sọc một hơi. Nước ngậm đã bị nhổ vào ống nhổ, khói thuốc đã bị thở lên mái nhà, cụ Nghè ra hiệu cho các cậu học trò đọc sách.

Nhanh nhẩu và cung kính, một cậu học trò nữa nhẹ nhàng ôm chồng sách in cúi đầu đặt lên án thư.

Sau một câu xin phép rất lễ độ, một cậu học trò tốt giọng đằng hắng mấy tiếng, rồi mở sách ra đọc.

Theo lệ hàng ngày, bao giờ cũng đọc đủ ba thứ sách: kinh, chuyện và sử.

Hôm nay trước nhất thì đọc Kinh Dịch, rồi đến sách Trung Dung, rồi đến cuốn Tống Thiết Tông.

Mỗi khi người đọc sách đọc hết bài cái bài bản trong một chương, cả trường đều im phăng phắc, hơn trăm con mắt chăm chú ngó vào sách của mình, hơn trăm lỗ tai yên lặng đợi lời giảng của thầy.

Bằng cái giọng sang sảng như tiếng chuông đồng, cụ giảng rành mạch từ nghĩa đen đến nghĩa bóng, từ nghĩa gần đến nghĩa xa, cụ chỉ rõ ràng những lời bàn nào là phải, những lời bàn nào là quấy, cụ nói như rót vào tai học trò.

Đọc rồi giảng, giảng rồi đọc, qua bốn năm lượt giã trầu, đánh lửa, thi kinh, chuyện, sử, mỗi thứ cũng bị nhắc lại hết vài chục tờ. Công việc "nghe sách" sắp đoạn, cao hứng, cụ vuốt râu, hỏi:

- Các anh có biết thể văn lục bát nguồn gốc ở đâu hay không?

Gần trăm bộ mặt hết thầy tỏ vẻ ngơ ngác, người ta phải đáp lời thầy bằng sự lặng im.

Cụ cười khanh khách và mắng học trò một cách vui vẻ.

- Các anh không có ý tứ chút nào. Giở lại bài đọc hôm nay mà xem, nguồn gốc thể văn lục bát ở ngay những chỗ các anh vừa mới "nghe" đó...?

Gần trăm cuốn sách đều bị lật đi lật lại lung tung. Không ai tìm thấy chi hết, người ta lại đáp lời thầy bằng sự lặng im.

Vẫn bằng giọng nói vui vẻ, cụ giảng:

- Kinh, chuyện, sử mỗi pho đều có một câu lục bát: "Lục tam hàm chương khả chinh." Hoặc "tòng vướng sự vô thành, hữu chung." Đó là câu ở Kinh Dịch. "Phù thủy, nhất thước chi đa, Cập kỳ bất trắc, ngoan, đà, giao, long..." Đó là câu ở sách Trung Dung, còn ở sử thì là câu gì? các anh đã nghĩ ra chưa?

Kẻ chau mày lục soát trí nhớ, người còn để mắt từa tòi trong cuốn sách vừa đọc cuối cùng, chưa ai kịp trả lời ra sao, cụ đã nói tiếp:

- "Đô dĩ sái sác hữu công, Sử chi tòng tựa triệt tông miếu đình." Có phải câu trên sáu chữ, câu dưới tám chữ, rành rành theo vần với nhau đấy không? Đó là câu ở Tống sử. Thể văn lục bát của ta khác hẳn các lối thi ca của Tàu, không biết xuất hiện ra từ đời nào, nhưng nguồn gốc của nó, quyết phải ở mấy câu ấy. Những người kiến thức nông nổi, không chịu xét đến uyên nguyên, thường khoe nước mình có riêng một thể văn chương. Kỳ thực cũng là bắt chước kinh, chuyện và sử tất cả. Tiếc rằng thể văn ấy hiện nay chỉ có những câu phong dao, tục ngữ và những bài hát vè, hát đúm, nôm na mách qué, sai cả ý của thánh nhân...

Những cậu học trò nghe rồi, ai nấy như mơ mới tỉnh, tuy cũng có vài người dám cho ý kiến của thầy là quá khiên cưỡng, và họ quả quyết tin rằng thể văn lục bát với mấy câu kia chẳng qua ngẫu nhiên hợp nhau, không phải có dính với nhau, nhưng họ đều nín im không nói. Còn phần đông đều phục cụ Nghè là bậc cao kiến, đã phát minh được một điều lạ lùng. Lại tan buổi học của lớp trung tập.

Học trò đại tập dần dần kéo đến. Ai cũng như nấy, rón rén bước vào ngồi khắp dãy phản ở hai gian cạnh, sau khi đã chắp tay chào thầy.

Nghỉ ngơi một lát, cụ Nghè giở lại tập quyển đã chấm, và tìm những quyển sẽ được "bình" để riêng một chồng.

Mọi kỳ bình văn trước kia, quyển "tập" thường thường tới gần ba trăm học trò đến nghe, vừa đại tập vừa trung tập có khi tới gần bốn trăm. Kỳ này vì đương khoa thi, học trò đại tập hầu hết nghỉ để đi thi. Chỉ có ít người bị trở đại tang hoặc vì cớ khác không được vào thi thì mới có quyền ở đó. Bởi thế kỳ ấy số quyển rất ít, nhất là những quyển được bình lại càng ít lắm. Nhưng số người vào nghe thì nhiều gấp trước mấy lần.

Là vì khoa thi mới bắt đầu, thí sinh các trấn hãy còn tụ ở Hà Nội chờ xem bảng kỳ đệ nhất, nghe tin một trường danh tiếng như trường cụ Nghè Hoàng có kỳ bình văn, ai cũng nô nức đến xem.

Chừng khoảng nửa buổi, người ta kéo vào càng đông. Các phản trong nhà, ngoài thềm đã bị ngồi hết, nhiều người phải dúm dụm đứng với nhau ở dưới giàn hoa.

Hơi người đã chinh phục khí hậu giá rét và bắt nó phải ấm nóng.

Mấy ông bạn thân của cụ Nghè mời đến dự thính vẫn chưa thấy lại.

Mấy trăm sĩ tử cũng như gần trăm quyển văn hết thảy ngong ngóng chờ đợi. Có người nóng ruột đã lảng ra công.

Mặt trời gần tới đỉnh đầu.

Bóng rợp của mấy cây bàng đã thu gọn lại.

Ngoài ngõ nghe có tiếng ho khù khụ và tiếng nói lao xao.

Cụ Nghè Phạm lù khù đi vào với ông Chiêu Bảy, ông Chiêu Tám, ông Cống Thiều, ông Cống Minh và ba bốn ông Cống nữa.

Tất cả những người đương ngồi đều lễ phép đứng lên.

Rề ràng, cụ Nghè Hoàng bước trên ghế xuống và ra tận thềm đón khách.

Với bóng vía của những chữ "cao niên thạc vọng", hai cụ Nghè và hai ông Chiêu ngồi trên chiếc ghế chính giữa một cách tự nhiên. Các ông Cống giữ lễ hậu tiến, khép nép ghé vào hai chiếc tràng kỷ kê hai bên cạnh.

Trong nhà, ngoài thềm, sĩ từ lần lượt ngồi xuống.

Cạn tuần nước chè thứ nhất, cụ Nghè Phạm phều phào hỏi cụ Nghè Hoàng:

- Kỳ này có quyển nào khá không?

Gật gù, cụ Nghè Hoàng đáp:

- Có một quyển của Trần Danh Mẫn khá lắm, tôi đã phê "ưu" và hai quyển nữa tôi đã phê "bình", của Đàm Thận Trung và Nguyễn Mạnh Cố, cũng có nhiều đoạn xuất sắc.

Vừa nói, cụ Nghè Hoàng vừa lục mấy quyển dấu khuyên đỏ chói đưa cụ Nghè Phạm và hai ông-chiêu.

Ba người vừa xem vừa cười thích chí, ai nấy tấm tắc khen "được". Tuần nước chè thứ hai lại cạn.

Công việc bình văn đã bắt đầu.

Đầu bài kỳ này chỉ có hai bài tứ lục: chiếu thi "Nghĩ Nguyên Thế tổ trưng cầu Cố Tống di thần", hiệu là "Nghi Hán Tứ hiệu từ qui thương sơn".

Với nghiên mực để sẵn bên cạnh, một ông học trò sang tiếng lĩnh quyển của Trần Danh Mẫn ra bình.

Vừa đọc hết đoạn mở đầu cụ Nghè Phạm và hai ông Chiêu dục khuyên rối rít, làm cho người bình khuyên điểm không kịp, dấu mực mới chi chát để lên dấu son cũ, quyển văn lòe loẹt như một đạo bùa.

Người ấy bình hết quyển Trần Danh Mẫn đến lượt người khác bình quyển Đàm Thận Trung, bây giờ tiếng dục khuyên điểm đã thưa, khi người sau cùng bình đến quyển Nguyễn Mạnh Cố thì trong trường tự nhiên không thấy vui vẻ bằng trước.

Bỗng ở chiếc phản cạnh thềm mấy cậu học trò chụm đầu vào nhau, hình như không hề để ý đến bài văn đương bình. Rồi họ đọc lẩm nhẩm. Rồi họ cười tủm tỉm. Rồi họ cười khúc khích. Rồi họ xúm lại như đám thò lò, quên cả lễ độ ở trước thầy học.

Ngạc nhiên, cụ Nghè Hoàng quát hỏi:

- Cái gì ở ngoài ấy thế?

Mười mấy cái đầu cùng ngửng lên. Một cậu gập tập trắng dấu vào túi. Các cậu khác quay ra ngồi lại một cách nghiêm trang, cả mười mấy người đều như muốn cười mà phải cố nhịn.

Ông Chiêu Bảy chừng lấy làm lạ, vui vẻ hỏi:

- Giấy má gì đấy? Các cậu đưa vào lão xem.

Mọi người đều bưng miệng nín cười vờ ngơ ngác nhìn nhau, không ai dám nói sao cả.

Ông Chiêu Tám cũng tươi cười hỏi:

- Chắc là văn thơ của ai chế riễu bọn lão chứ gì!

- Được các cậu cứ đem vào đây!

Vẫn không người nào chịu đưa.

Phát cáu, cụ Nghè Phạm bảo ông Cống Thiều ra lấy. Cực chẳng đã, cậu nọ phải móc túi giấy bỏ tập giấy ra, vẻ sợ sệt hiện đầy trên mặt.

Ông Cống Thiều vừa đi vừa xem vừa cười tủm tỉm, rồi lễ phép trao lại cho ông Chiêu Bảy.

Ông Chiêu Bảy cũng không thể nhịn cười mỗi khi xem hết một câu.

Cuộc bình văn đã xong, bao nhiêu học trò đều ngồi nán lại, chờ coi tập giấy kia là bài gì.

Ông Chiêu -Tám nhẩm ông Chiêu Bảy:

- Có phải họ chế chúng mình đấy không?

Ông Chiêu Bảy lắc đầu:

- Không phải. . . Bài ca tự tình của Hồ Xuân Hương.

Cụ Nghè Hoàng nghe đến ba chữ Hồ Xuân Hương như bẩn cả lỗ tai, chau hai lông mày, cụ gắt:

- Các ngài xem chi văn chương của con gái rõm ấy, xin cho trẻ nó đốt đi!

Ông Chiêu Bảy ỡm ờ:

- Nó rõm nhưng văn nó hay. Sao lại đốt? Tôi muốn xin phép các quan bình cho học trò nghe.

Cụ Nghè Hoàng cho là ông này cố ý trêu mình, im bặt không nói gì nữa.

Cụ Nghè Phạm vội giằng tập giấy ở tay ông Chiêu Bảy:

- Đưa lão xem. Thế nào mà ông bảo là văn hay?

Vừa coi hết vài dòng đầu, cụ Nghè Phạm quăng tọt xuống án và gọi đồng sinh đem đốt ngay đi!

Ông Chiêu Bảy lại cầm luôn lấy:

- Vâng! Đốt thì đốt? Nhưng xin hai cụ hãy cho chúng tôi bình chơi cái đã!

Cụ nghè Hoàng sầm mặt:

- Ở đây nhi mục quan chiêm không phải chỗ nói khôi hài.

Ông Chiêu Bảy vẫn hời hợt:

- Bẩm không phải khôi hài! Tôi muốn theo ý của Kim Thánh Thán đấy ạ? Chắc hai cụ cũng còn nhớ cả, trong bài tựa quyển Tây Sương Ký, Kim Thánh Thán có nói thế này: "Người ta bảo Tây Sương Ký là sách dâm, chỉ vì trong sách có việc. . . ấy. Nhưng thử nghĩ kỹ mà xem: trời đất vũ trụ ngày nào không có việc. . . ấy? Chỗ nào không có việc... ấy. Có lẽ bảo trời đất có việc ấy thì bỏ trời đất; vũ trụ có việc ấy thì bỏ vũ trụ hay sao? Sao sách ấy có việc ấy lại muốn bỏ nó". Hai cụ nghĩ sao? tôi cho Thánh Thán nói vậy là phải. Vậy xin phép hai cụ, cứ cho chúng tôi bình thử?

Ông Chiêu Tám cũng cười:

- Thì ông ấy đã muốn như thế, hai cụ cứ thì cho phép cái nào?

Ông Cống Thiều ra bộ sốt sắng:

- Xin phép các cụ để cho tôi bình.

Rồi ông ấy nhanh nhẩu đứng dậy đón tập giấy của ông Chiêu Bảy. Cụ Nghè Phạm cũng như cụ Nghè Hoàng lặng lẽ ngồi với mặt thâm mày xám.

Ông Cống Thiều vừa cầm tập giấy vừa cười sằng sặc. Học trò trong nhà, ngoài thềm, hết thầy ngơ ngẩn chờ nghe.

Lâu lâu, tan cơn buồn cười, ông Cống Thiều dõng dạc cất giọng:

- Tự tình rằng:

Khi canh cửi, lúc ngồi thong thả

Ngẫm sự đời buồn bã gớm ghê!

Âm dương lấy đấy mà suy

Côn trùng cũng có huống chi loài người.

Gớm rát tai, những lời trò chuyện

Khéo đặt điều nói đến những câu

Cả nhà im lặng như thường. Mấy ông học trò ngồi ngoài lầm rầm bảo nhau:

- Như vậy tưởng không có gì là rõm

Hai cụ Nghè vẫn mặt lăng mày vực, ông Chiêu Bảy vẫn chúm chím cười thầm.

Ông Cống Thiều nghỉ trong giây lát lại tiếp:

- Thơ rằng:

Chém cha cái số má hồng trâu.

Nghĩ đến càng thêm lắm nỗi sầu

Dệt cửi quăng đi còn có lẽ

Gieo thoi ném lại, chuyện không đâu.

Ông Chiêu Tám nói xen:

- Mấy câu ấy chắc ả muốn than về chuyện chồng rẫy. Được, văn cũng hoạt.

Ông Cống Thiều vẫn đọc:

- Gớm thay Gan người, dạ thế, sâu khôn xiết,

Phao lên rằng: "tít tịt có chi"

Tai thấp thoáng, bụng hồ nghi.

Rành rành chẳng biết cái gì mọc đây Hai ông Chiêu đều cười ngặt nghẽo.

Cụ Nghè Hoàng xua tay bảo ông Cống Thiều:

- Thôi đừng đọc nữa.

Nhưng ông Cống Thiều cứ đọc:

- Cơn vắng vẻ mặt dầy ngắm lại

Lúc buồn tình tay gãi đã quen

Rành rành múi mít đôi bên.

Lùm lùm chai úp là miền hạ thôn. Ông Chiêu Tám vẫn tủm tỉm:

- Tục quá? Không trách các cụ bảo đem đốt đi cũng phải. Văn chương gì mà tục đến thế.

Ông Chiêu Bảy vội bênh bằng giọng cười cợt:

- Cố nhiên nó tục! Nhưng ông nên biết cho người ta rằng: đó là một bài tự tình cốt để giải tỏ cái oan "ái nam", không phải là kinh, là chuyện, hay là một thiên gia huấn? Vả chăng, mấy câu này tuy tục nhưng chỉ ý tục chớ lời không tục, cũng còn có thể tha thứ.

Hai cụ Nghè cắm mặt ngồi im, ông Chiêu Tám chỉ cười không đáp. Ông Chiêu Bảy nói tiếp:

- Người đời, trừ ra bực thần tiên ai mà không tục!

Tôi rất phục câu nói của ông Trương Xưởng: "Trong chốn khuê phòng, tình nựng vợ chồng, còn có việc tệ hơn là vẽ lông mày". Bị vua hỏi đến tội vẽ lông mày cho vợ, mà ông ta dám nói như thế, kể cũng thật thà và can đảm lắm. Tôi không hiểu tại sao nhiều người vẫn luôn làm những việc tục, mà đến văn chương lại ghét ý tục? Thánh hiền có dạy thế đâu!

Cụ Nghè Hoàng vùng vằng đứng dậy đi vào nhà trong. Ông Cống Thiều cao giọng ngâm nga:

- Cỏ rêu mọc xanh om cửa tía,

Lá cờ bay đỏ kẽ song đào,

Môi dầy, miệng rộng, trán cao,

Đúng trong tướng pháp ảnh hào nghi dung. Nhà trong nhà ngoài, tiếng cười rầm rì, tưởng như xô cả mái ngói. Ông Chiêu Bảy vỗ tay bảo ông Chiêu Tám:

- Đoạn này chắc nó xỏ lão Quyền Chưởng Vệ "Môi dầy, miệng rộng, trán cao", thật là mặt ông Quyền Chưởng vệ, không sai một chút. Ừ, một người tài tình như thế, vô cớ bị ông kia hỏi lấy một cách ép uổng, rồi lại vu cho cái tiếng "ái nam" để mà đuổi đi. Như vậy, nó tức là phải, xỏ là phải.

Rồi ông Chiêu Bảy giục ông Cống Thiều:

- Ông cho nghe tiếp đoạn dưới.

Nhưng ông Cống Thiều vì cười nhiều quá, phát nấc, không đọc được nữa, ông Cống Minh cầm quyển đọc thay:

- Ấy rõ thật là. . .

Mới được bốn chữ, ông này đã cười sằng sặc, không thể đọc tiếp.

Một lát, cơn cười hơi tan, ông ấy bưng miệng đọc nốt:

- Vông rầy rây,

Bằng lương nhân trông thấy cũng ghê.

Há như lá...

Cơn cười sằng sặc lại nổi lên, ông Cống Minh lại phải nghỉ đọc. Lâu lâu, ông ấy lại bưng miệng đọc theo:

- tróc, lá tre,

Mà cười mà ngắm mà kề mà không Ông Chiêu Tám lắc đầu:

- Đểu quá ! Nó xỏ lão Quyền Chưởng Vệ đau quá.

Ông Cống Minh ngân giọng:

- Của trời cho, xinh giòn là thế.

Người ta còn ẻo ẹo rằng "không".

Nín thì tức, nói thẹn thùng,

Phải đồ oán chợ mà hòng phô trương

Mà dãi thẻ như phường tơ kén

Vén màn quần bầy biện đồ ra

Để cho những khách gần xa

Thử xem cho biết rằng là có không

 

(còn tiếp) 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét