BÓNG TÀ DƯƠNG
Trống mười sông nổi dậy;
Cồng chục núi vang lừng.
Khí quê hương rộn rã;
Hồn dân tộc tưng bừng.
Nước Văn Lang bao thế kỷ oai phong, lòng hậu bối rộn ràng dâng sóng biển;
Dòng Âu lạc mấy nghìn năm bất biến, hồn tiền nhân linh hiển ngợp mây rừng.
Lật trang sử Việt!
Mở sách vua Hùng!
Nước Âu Lạc hiên ngang vươn cánh phượng;
Thành Phong Châu sừng sững trụ chân rồng.
Lạc Hầu phát triển nghiên sách bút;
Lạc Tướng trui rèn kiếm đao cung.
Nam Lang săn bắn nơi đồi núi;
Nữ Mỵ cấy gieo chốn ruộng đồng.
Mười tám đời lưu danh dũng mãnh;
Bốn nghìn năm di cảo hào hùng.
Phò xã tắc ngăn thù xâm khốc hại;
Giữ sơn hà chống giặc phá tàn hung.
Đây Nhị Trưng quần thoa anh vũ, ngồi dũng tượng băng ngàn, chiến trường Hán hồn bay phách lạc;
Nọ Bà Triệu yếm thắm nữ lưu, cỡi nghê kình đạp sóng, trận địa Ngô mật vỡ gan bung.
Quang Phục đó: Dạ Trạch thủ đầm lầy , quân Bắc Lương phơi thây sạn đạo;
Ngô Quyền này: Bạch Đằng gieo cọc nhọn, Tướng Nam Hán vùi xác thủy cung.
Dẹp nội loạn nồi da nấu thịt, tính toán tranh dành, uy Bộ Lĩnh thuyền yên sóng lặng ;
Trừ ngoại xâm chước quỷ mưu ma, lăm le chiếm đóng, dũng Lê Hoàn đất chuyển trời rung.
Mái đình Như Nguyệt, ngâm Chiếu hịch ban truyền, Thường Kiệt Lý bêu đầu Chiêm Tống;
Sân điện Bình Than, đọc Binh thư yếu lược, Hưng Đạo Trần trấn nước Nguyên Mông.
Lê Lợi trì chí trì tâm, chốn quan ải Minh Liễu Thăng đoạn xác;
Quang Trung tốc hành tốc thắng, nơi nội thành Thanh Nghi Đống treo thừng.
Vận lịch sử bao đời thành bại;
Dòng thời gian mấy kiếp cát hung.
Cũng lắm lúc trời quang mây tạnh;
Lại nhiểu khi sóng dậy gió bùng .
Chẳng vuông vắn vì mía sâu có đốt;
Không tròn đầy bởi ruộng cỏ từng vùng.
Ghét Ngọa Triều, ma tái thế gật đầu khen ác đế;
Chê Uy Mục, quỷ hồi sinh vênh mặt phục tà vương.
Lại bạo chúa Kiều Công, rước voi dầy mả thành xiêu lũy đổ;
Thêm hôn quân Chiêu Thống, cõng rắn cắn gà quốc phá gia vong.
Cơ trời sập sinh lộn tên rắn rết;
Vận nước suy đẻ lầm đứa bọ hung.
Bĩ cực đến cỏ bén lan hiếp đáp;
Thái lai về đèn khêu ngọn linh lung.
Trần Nhân Tông Phật độ Nho truyền, nơi hoàng điện lập Trúc Lâm Yên Tử;
Nguyễn Bỉnh Trạng thiên kinh địa khấp, chốn bạch am ghi Thái ất thần thông.
Nguyễn Trãi cái thế quân sư, quê nhà thảo Bình Ngô Đại Cáo;
Đĩnh Chi vô song sứ giả, đất khách phong Lưỡng quốc trạng nhung.
Khen Hàn Thuyên chữ tốt văn hay, bút pháp rạng Phi Sa Giản Tập
Phục Hữu Trác cứu nhân độ thế, thần y vang Hải Thượng Lãn Ông
……………..
Tuấn kiệt lắm như rừng thơm núi Tản;
Nhân tài nhiều tựa nước ngọt sông Hồng.
Nguồn khởi điểm khai nước non Âu Lạc;
Gốc nguyên căn nở dòng giống vua Hùng.
Uống nước mát tri ân thợ giếng;
Ăn quả ngon tạc nghĩa người trồng.
Dâng tổ phụ triệu con dân nam bắc;
Kính cha ông muôn cháu chắt tây đông.
Thiên thu hoài tưởng!
Vạn đại phục cung!!
Bóng tà dương
Cảm ơn Cao Bồi Già đã đăng lại bài này, 2 năm rồi nhỉ, đọc lại vẫn còn hoài cảm.
Trả lờiXóa