NỖI LÒNG RAU RĂM
Gió đưa cây cải lặng về trời
Giọt nắng trần gian, vẫn rạng
soi
Sự sống sục sôi tràn lũng núi
Nguồn xanh ngăn ngắt phủ
nương đồi
Tịnh không kẻ đoái, buồn dăm
phút
Nào có ai thương, cảm một lời
Chỉ mỗi rau răm sầu ở lại…
Đắng cay hứng vạ, mặt trơ
đời…
CAO BỒI GIÀ
13-06-2018
BÀI HỌA:
SAU
LỜI
Chẳng
tiếng kêu thương động cửa trời
Rau
răm ở lại,...mặc săm soi
Chìm
trong sương trắng tràn đồng bãi
Lặng
giữa cây xanh ngợp núi đồi!
Thấm
cay men lá nghe chua vị
Ngậm
ngọt bồ hòn ngẫm đắng lời!
Cây
cải vô tình theo gió cuốn
Chỉ
răm tự biết nỗi đau đời!?
13-6-2018
Nguyễn
Huy Khôi
ĐỒNG HỌA:
TÍCH XƯA CHUYỆN CŨ
Bị cha bức tử, Cải lên trời
Lòng dạ ngay tình sử sách soi
Yêu nước, mẹ Răm soi sáng thế
Rạng danh, rau mọn mọc xanh đồi
Giận chồng mê muội tin vào giặc
Hận lũ xâm lăng uất nghẹn lời
Thân xác đọa đầy, gương rực rỡ
Tích xưa truyền tụng mãi muôn đời.
(*) Cây Cải- Rau Răm là câu chuyện về Hoàng tử Cải và mẹ là
bà phi Răm, vợ của Nguyễn Ánh (vua Gia Long). Khi Nguyễn Ánh đánh
thua
Nguyễn Huệ, muốn giao hoàng tử Cải làm con tin để cầu viện
quân Pháp, bị bà phi Răm phản đối, liền ném Hoàng Tử xuống biển
và giam bà phi vào ngục thất.
Người đời sau ca ngợi tinh thần yêu nước của bà phi Răm và
chê
trách hành động " cõng rắn cắn gà nhà" của vua Gia Long.
Sông Thu
CÙNG HỌA:
RĂM VÀO DANH SỬ
Hoa Cải đành bay họa tới trời
Lâu rồi gương ấy hãy cùng soi
Ngai vàng một thoáng vùi bao mộng
Điện ngọc vừa đây rải mấy đồi
Máu chảy ruột mềm đau vạn kiếp
Nồi da xáo thịt hận muôn lời
Cành Răm từ ấy vào danh sử
Cổ lục buồn đau suốt cả đời…
PHAN TỰ TRÍ
TIẾP HỌA:
CHUNG
PHẬN
Rau
răm ở lại, cải lên trời
Tình nghĩa vậy thôi, chớ xét soi
Cay đắng cùng chung khi giữa trận
Ngọt bùi chia sẻ lúc lưng đồi
Cuộc vui chấm dứt, đâu cần rượu
Thế sự đổi thay, mãi cạn lời
Kẻ ở chân trời còn lận đận
Quê nhà cam chịu, sống qua đời
Thanh Trương
Tình nghĩa vậy thôi, chớ xét soi
Cay đắng cùng chung khi giữa trận
Ngọt bùi chia sẻ lúc lưng đồi
Cuộc vui chấm dứt, đâu cần rượu
Thế sự đổi thay, mãi cạn lời
Kẻ ở chân trời còn lận đận
Quê nhà cam chịu, sống qua đời
Thanh Trương
HỢP
HỌA:
VẾT
NHƠ
Thoảng
nghe câu hát vút ngang trời
Để
lại ngàn sau ngẫm xét soi
Phận
mọn hết lòng gìn đất nước
Thân
hèn quyết dạ giữ vùng đồi
Biển
sâu bối rối nên nghẹn tiếng
Tù
ngục bi ai nỏ thốt lời
Hậu
thế cười chê sao cạn nghĩ
Vết
nhơ còn đó, trải bao đời
Hồng Phượng
CŨNG
HỌA:
NỖI BUỒN VƯƠNG PHI*
Phu phụ lìa xa chẳng oán trời
Phi về nương rẫy, bóng trăng
soi
Quân vương lạc lối...đau lòng
thiếp
Binh sĩ phơi thây...trắng núi
đồi
Cõng rắn, rước voi
..."dày xéo nước"
Đày dân, lệnh họ..." cấm
buông lời"
Vàng son rồi cũng theo dòng
nước
Tiếng xấu ngàn năm mãi để đời
!
Thy Lệ Trang
*Sách Việt Nam Phong Sử của
Nguyễn Văn Mại (tủ sách Cổ Văn, phủ Văn Hóa, Sài Gòn 1972, trang 126), do Tạ
Quang Phát phiên dịch, ghi như sau:
Gió
đưa cây cải về trời
au
răm ở lại chịu lời đắng cay.
"Thơ phong sử này thuộc
tỷ. Cải rau cải có thể làm dưa, tháng mùa đông bắt đầu gieo hột mà trồng. Trời,
thiên triều, triều nhà Thanh bên Tàu. Nước ta trải các đời đều chịu triều đình
Trung Quốc phong cho, cho nên gọi Trung Quốc là thiên triều. Răm, thứ rau có vị
cay, mọc ở chỗ đất thấp. Theo Sử ký, Nguyễn Thị Kim, người ở làng Tỳ Bà, huyện
Lương Tài, là cung phi của vua Lê Mẫn Đế.
Lúc ấy quân Tây Sơn chiếm cứ
thành Thăng Long, vua Lê Chiêu Thống và Hoàng Thái Hậu với cung phi chạy lên
Cao Bằng, nếm mọi nỗi đắng cay.
"Đến khi vua Chiêu Thống
sai người sang cầu cứu với nhà Thanh thì trước hết bí mật khiến người hộ tống
Thái Hậu và Nguyên Tử (con trai trưởng của vua) đi sang Tàu.
"Còn Cung Phi Nguyễn Thị
Kim đi theo không kịp, phải buồn hận trở về, âm thầm ẩn tránh trong dân gian lo
việc làm ruộng nuôi tằm, dệt vải để sống bằng sức lực của mình.
"Ngày xưa sống với phấn
sáp cung trang, ngày nay nàng trở thành người đàn bà quê với áo vải hoa gai,
vua thì chạy đi, nước thì tan mất, nỗi đắng cay không xiết được, cho nên làm
thơ phong dao để tự ví mình.
Cải,
là thứ rau có vị đắng, ví với Thái Hậu
Rau
răm cũng có vị đắng, ví với Cung Phi
“Ý nói là Thái Hậu đi xa sang
Thiên Triều chưa biết kham khổ ra sao. Một mình Cung Phi ở lại trong đất giặc
chiếm đóng phải chịu những nỗi cay đắng ấy. Đấy cũng là lời than thở.
“Về sau vua Chiêu Thống ở Yên
Kinh bị bịnh mà chết.
Sau khi lấy được nước và định
quốc đô, Triều Nguyễn ta xin nhà Thanh đưa linh cữu vua Lê Chiêu Thống về nước.
"Cung Phi Nguyễn Thị Kim
đến trước linh cữu lạy khóc rồi uống thuốc độc mà chết. Thương thay! Trung thần
liệt nữ từ xưa đều thế” (trí
ĐỒNG HỌA:
LỜI
RĂM
Vô
đạo phải đâu lỗi ở trời?
Còn
kia sử liệu tỏ tường soi
Hại
nhà chớ mộng than thành ngọc
Bán
nước đừng mơ vũng hóa đồi.
Bức
tử Tử Hoàng ô uế tiếng
Giam
cầm Phi Nữ chát chua lời!
Bệ
Rồng gác tía,...như mây thoảng
"Cõng
rắn cắn gà"...nhục mãn đời!?
15-6-2018
Nguyễn
Huy Khôi
CÙNG
HỌA:
SỐ PHẬN ĐẮNG CAY
Có phải vàn muôn cớ tại trời
Đây chiều bóng ngả,đó dương
soi
Hoa vàng thanh thoát bay theo
gió
Rau mỏng hẩm hiu ở lại đồi
Phụ nghĩa bội tình, gieo lắm
tiếng
Cõng xà, cắn dậu lãnh bao lời
Đắng cay cam chịu riêng thân
đọa
Giữ vững lòng son trải với
đời.
Thanh
Hoà
TIẾP HỌA:
VẬN NƯỚC ĐẢO DIÊN
Gió thổi về đâu tận cuối trời
Đưa hồn ái tử dưới trăng soi
Cây khô rụng lá trơ nguồn cội
Cải ngọt tàn nương khổ đắng
lời
Lụy chốn lao tù thương dạ mẹ
Sầu cơn quốc biến ngập lưng
đồi
Muôn ngàn cay đắng thân bèo
bọt
Đất nước ghi danh sáng cõi
đời !
THIÊN HẬU
HỢP HỌA:
DUYÊN
NỢ RAU RĂM
Cùng
bao rau quý ngắm mây trời
Rải lá
xanh màu để nắng soi.
Răm
giãi ít nơi dường khác nết
Cải
vươn mọi chốn cả leo đồi
Bên này
nghĩa rộng luôn ngời ý
Phía nọ
tình thưa khó đẹp lời
Tại vị
thơm cay đòi khéo hợp
Riêng
anh vịt lộn kết duyên đời .
Trần Như Tùng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét