Trang sử viết:
Bình Trọng vị
quốc hy sinh;
Lê Lai vong thân
quyết tử.
Yết Kiêu đục
thuyền Mông Cổ;
Trung Trực thiêu
hạm Lang Sa.
Dòng Âu Lạc từ
thời khởi điểm, mấy ngàn năm xây dựng nước nhà;
Giống tiên rồng
thuở lúc manh nha, bao thế kỷ tô bồi dân tộc.
Kìa Đinh-
Lý- Trần- Lê…,hằng chăm chú giữ gìn bao bọc;
Nọ Tống- Nguyên-
Minh- Mãn…,những lăm le xâm lược bất thành.
Này Sầm Nghi Đống
thắt cổ trên cành;
Đó Ô Mã Nhi khom
mình dưới bệ.
Thoát Hoan quăng
giáp chui luồn, lạc phách bay hồn run thỏ đế;
Sĩ Nghị cuốn cờ
tẩu thoát, thay màu đổi sắc hoá kỳ nhông.
Hầu Nhân Bảo, nơi
Chi lăng ải đoạn hồn;
Lưu Hoằng Thao,
chốn Bạch Đằng giang phơi xác.
…………..
Dòng lịch sử kìa
bia đã tạc;
Vết thời gian đó
sách còn rành.
Ngẩng cao lên chả
thẹn với trời xanh;
Cúi thấp xuống
không buồn cùng đất lục.
Hôm nay!
Lớp chúng ta sinh
thời loạn lạc;
Thế hệ mình gặp
buổi gian nan.
Ngó chân chồn đi
lại nghênh ngang;
Nghe lưỡi cú ba
hoa điên đảo.
Hàm ngao cẩu
khinh thường xự xạo;
Lưỡi hồ ly rẻ
rúng điêu ngoa.
Đem to hiếp bé
gây nạn can qua;
Lấy thịt đè người
tạo cơn chinh chiến.
Không còn nhớ
ngàn năm xưa, máu Bắc gian nhuộm hồng sông biển;
Cố tình quên
thiên kỷ cũ, xương Tàu ác phơi trắng ải quan.
Thế nên:
Ngày tới mỗ quên
ăn;
Đêm về ta mất ngủ.
Trào nước mắt
buồn phiền ủ rũ;
Ứa dòng châu não
nuột sầu u.
Lòng phẫn hận,
mong lột da xẻ thịt quân thù;
Dạ hờn căm, muốn
tắm huyết nhai gan lũ giặc.
Dù thi thể da
ngựa bọc thây cuối đất;
Dẫu hình
hài máu rồng tràn sũng đầu sông.
Ngẫm xem:
Trông tổ quốc
nhục, sao nằm nhìn thanh thản tựa không;
Biết sơn hà nguy,
cứ đứng ngó bằng chân như vại.
Thân giữ quan to,
thấy rõ gai mắt trái tai chẳng ngại;
Xác làm tướng
lớn,ngồi ỳ rung đùi vỗ ngực mà ngơ.
Còn thong dong
thích thú bạc cờ;
Lại quyến luyến
đam mê trà tửu.
Đêm ca hát mê say
lưỡi líu;
Ngày rượu chè ngả
ngớn mồm oang.
Lọng ô dù há hứng
nổi bom càn?
Cựa gà trống nào
đâm thâu thiết giáp!
Tiền một đống sao
mua xong đầu giặc;
Chó hàng bày đố
đuổi nổi chân thù.
Tiếng sáo hay bên
ghế cọp, ỏn ẻn tựa ruồi bu;
Lời ca ngọt vẳng
tai trâu, vo ve như muỗi quyện.
Hỏi rằng:
Khi quân thù tráo
trở chiến tranh, vượt ranh giới ào ào xông đến;
Lúc kẻ địch cố
tình binh biến, lấn biên cương ồ ạt tràn vào.
Mộ tổ tiên chà
đạp xới đào;
Miếu xã tắc đẩy
xô vùi lấp.
Toàn quyến thuộc
tiêu vong tất tật;
Mọi gia đình tận
triệt sành sanh.
Vườn ruộng kia
mất sạch, dân tình gào uất thấu trời xanh;
Lộc tài đó bay
vèo, con cháu khóc hờn đay đất xám.
Vợ nô dịch nhục
nhằn vô hạn;
Con tôi đòi phẫn
hận khôn lường .
Thước nào đo để
hết mọi tai ương;
Thưng nào đếm cho
xong bao hiểm hoạ.
Bởi thế:
Căng hốc mắt nhìn
ra biển cả;
Mở vành tai nghe
tận non cao.
Quân Tàu ô nơi
hải phận nháo nhào;
Lũ Bắc xảo chốn
biên thuỳ hau háu.
Ngay lập tức thắt
lưng buộc bụng, lập hội Diên Hồng, thề truy giặc ngăn đường cuồng cẩu;
Hãy cấp thời sát
cánh kề vai, tựu tề Như Nguyệt, quyết diệt thù cản lối độc xà.
Tuyển binh hùng
ưu tú dấn xông pha;
Chiêu tướng giỏi
kỳ tài băng xuất trận.
Đánh cho vỡ mộng
hão huyền, lăm le chốn biển đông muốn lấn;
Trừ cho tan mơ ảo
vọng, chờ chực nơi quan ải hòng xâm.
Nó chớ trách, xưa
ôn hoà kết mối giao tâm;
Mi đừng than, nay
phẫn nộ cắt phần hữu hảo.
Khâu miệng giặc
đừng oang lếu láo;
Khớp mồm thù hết
rống huyênh hoang.
Non sông hoàn
giải đất nhà Nam;
Biển đảo nhập
vùng trời xứ Việt.
Cho bia đá tạc
sâu hằn khí tiết;
Để sử xanh ghi rõ
đậm hào hùng.
Vào miếu đền
không hổ với cha ông;
Đến lăng mộ chẳng
sầu cùng tiên tổ.
Chư dân thấy tỏ;
Toàn quốc nghe
tường!!
. Bùi Nghiệp